Mất cân bằng
giới tính khi sinh là số trẻ trai sinh ra
còn sống cao hơn hoặc thấp hơn ngưỡng bình thường so với 100 trẻ gái. MCB GTKS
xảy ra khi tỷ số giới tính nam khi sinh lớn hơn 106 hoặc nhỏ hơn 103 so với 100 trẻ nữ.
1. Nguyên nhân.
1.1.
Nguyên nhân cơ bản
Tư tưởng “ trọng nam khinh nữ”, phải có con
trai để nối dõi tông đường đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân, mỗi
gia đình và mỗi dòng họ. Người dân quan niệm có con trai mới được xem là đã có
con, không có con trai là tuyệt tự. Đến khi có con, phải theo họ của bố. Khi
cha mẹ chết, con trai được đứng trước, con gái đứng sau, chỉ có cháu trai mới
được bê bát hương ông, bà; con trai mới được vào nơi thờ tự…
1.2. Nguyên nhân phụ trợ
Quan niệm con trai mới là người chăm sóc cha mẹ
khi về già đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân, con gái khi lấy chồng sẽ
không sống trong gia đình của mình. Có người còn quan niệm coi con trai mới đảm
nhiệm được nhiều công việc nặng nhọc, con trai mới là trụ cột về kinh tế cho cả
gia đình.
Mặt khác, do áp lực giảm sinh, mỗi cặp vợ chồng
chỉ sinh 1-2 con, nhưng các cặp vợ chồng lại mong muốn trong số đó phải có con
trai. Vì vậy họ đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh như một cứu
cánh để đáp ứng được cả 2 mục tiêu.
1.3. Nguyên nhân trực tiếp
Sự phát triển của y học ngày nay cũng ảnh hưởng
một phần không nhỏ tới sự MCBGTKS, do lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ
để thực hiện lựa chọn giới tính trước khi sinh. Mà thành phố Yên Bái lại là
trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của toàn tỉnh - Là địa bàn tiếp cận dễ
dàng nhất với y học hiện đại so với các địa phương khác trong tỉnh.
2. Hệ lụy của
việc gia tăng tỷ số giới tính khi sinh
Tình trạng gia tăng TSGTKS sẽ dẫn tới những hệ
lụy khó lường về mặt xã hội, thậm chí cả an ninh chính trị khi các thế hệ trẻ
em sinh ra hôm nay bước vào độ tuổi kết hôn (ở Việt Nam, thời điểm này sẽ xảy
ra vào khoảng năm 2025-2030).
Trước hết tình trạng dư thừa nam
giới, thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn, có thể sẽ dẫn tới những thay đổi
trong hệ thống hôn nhân và gia đình. Một bộ phận nam giới có thể sẽ phải kết
hôn muộn và nhiều người trong số họ không có khả năng kết hôn. Một giải pháp
tình thế hiện đang được một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc áp dụng là kết hôn
với người nước ngoài (còn gọi là nhập khẩu cô dâu).
Giải pháp này đã cho thấy một số bất cập như tạo
ra các luồng di cư quốc tế mới, các biến thái mới của nạn buôn bán phụ nữ, trẻ
em gái dưới hình thức hôn nhân, đám cưới giả, và trên hết là nảy sinh các xung
đột quốc tế mới giữa các quốc gia "xuất khẩu cô dâu" và các quốc gia
"nhập khẩu cô dâu".
Việc gia tăng tỷ số GTKS không những không cải
thiện được vị thế của người phụ nữ mà thậm chí còn làm gia tăng thêm sự bất
bình đẳng giới. Nhiều phụ nữ có thể phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái
hôn của phụ nữ sẽ tăng cao. Người ta quan ngại về sự bạo hành ở một xã hội khi
có nhiều nam giới độc thân. Ở đó tình trạng bạo hành giới, tình trạng buôn bán
phụ nữ vào các cơ sở mại dâm có thể sẽ gia tăng. Vì thế tỷ số GTKS được coi là
một trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá mức độ tiến bộ của bình đẳng giới
trong xã hội.